Thứ bảy , Ngày 12 Tháng 07 Năm 2025
THỐNG KÊ TRUY CẬP

Hôm nay:

Hôm qua:

Trong tuần:

Trong tháng:

Tất cả:

Bình Chọn
Đánh giá thái độ phục vụ của cán bộ tiếp nhận hồ sơ ?
Cập nhật lúc: 16/08/2018

HỦY BẢN ÁN DÂN SỰ CÓ NHIỀU VI PHẠM


Nội dung vụ án:

- Bà Phạm Thị Hóa trình bày: Ngày 11/3/2013, bà Hóa (địa chỉ: 25A Hoàng Văn Thụ, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) thế chấp 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ) cho bà Nguyễn Thị Đức, vay giùm ông Trần Minh Sơn (Địa chỉ: 40 Lê Văn Hưu, thành phố Buôn Ma Thuột) 2,2 tỷ đồng để mua 03 thửa đất số 89, 92, 93 có tổng diện tích 3.380m2 tại thôn Tân Hưng, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột, và vay cho bà Ngân (mẹ ông Sơn) 5 triệu đồng. Ba thửa đất trên ông Sơn đã được UBND thành phố Buôn Ma Thuột sang tên trong hai Giấy CNQSDĐ số H116569 ngày 23/11/1995 và số BP 213855 ngày 07/8/2013.

Do ông Sơn không trả nợ nên bà Hóa đã phải vay 2,2 tỷ  đồng trả cho bà Đức và yêu cầu ông Sơn phải chuyển nhượng cho bà Hóa 03 thửa đất số 89, 92, 93; việc chuyển nhượng này đã được công chứng ngày 17/7/2014 tại Văn phòng công chứng Tây Nguyên nhưng sau đó ông Sơn không làm tiếp thủ tục sang tên. Mặt khác vào ngày 20/10/2014 bà Hóa phát hiện ông Sơn cùng bà Ngân tự ý lấy đất của bà Hóa nhận chuyển nhượng nêu trên, tách bán cho 25 hộ dân lấy 1,2 tỷ đồng. Bà Hóa yêu cầu ông Sơn giao 03 thửa đất số 89, 92, 93 nếu Tòa án không chấp nhận thì buộc ông Sơn phải bồi thường số tiền 2.405.000.000đ.

- Bị đơn ông Sơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Ngân (mẹ ông Sơn) trình bày: ông Sơn bà Ngân thừa nhận đã vay tiền của bà Hóa. Tuy nhiên do năm 2014 chưa có tiền trả nên bà Hóa yêu cầu ông Sơn bà Ngân ra công chứng làm thủ tục chuyển nhượng giả, mục đích giao cho bà Hóa hai Giấy CNQSDĐ số H 116569 và BP 213855 để làm tin; khoản nợ này đã được Tòa án giải quyết bằng Bản án số 02/2016/DSST ngày 04/01/2016 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột hiện đang trong giai đoạn thi hành án.
Bà Hóa lợi dụng Hợp đồng CNQSDĐ này đã tiến hành làm thủ tục sang tên thì bị ông Sơn bà Ngân phát hiện làm đơn ngăn chặn nên bà Hóa không làm thủ tục sang tên được từ đó phát sinh tranh chấp.

Trong tháng 5/2014, ông Sơn đã ký các Hợp đồng CNQSDĐ tại thửa số 92, 93 cho 25 hộ dân khác tại thôn Tân Hưng, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột. Cụ thể: Bà Lê Thị Tuyết Mai: 200m2 với giá 98.000.000đ ông Sơn đã nhận 30.000.000đ; Bà Lê Thị Tuyết Trang: 99m2 với giá 50.000.000đ, ông Sơn đã nhận 20.000.000đ; Ông Nguyễn Sơn: 200m2 với giá 96.000.000đ, ông Sơn đã nhận 40.000.000đ; Bà Nguyễn Thị Hường: 12m x 19,5m với giá 100.000.000đ, ông Sơn đã nhận 87.500.000đ; Ông Lê Nam Trung: 12m x 20m với giá 120.000.000đ, ông Sơn đã nhận 65.000.000đ; Ông Nguyễn Văn Tùng: 5,5m x 20m với giá 50.000.000đ, ông Sơn đã nhận 45.000.000đ; Ông Hoàng Văn Sơn: 5m x 20m với giá 40.000.000đ, ông Sơn đã nhận 37.000.000đ; và một số hộ khác.

Ngày 3/9/2014, bà Mai Thị Thu Thảo nhận chuyển nhượng của ông Sơn tổng diện tích 1.225m2 với giá 350.000.000đ, ông Sơn đã nhận 345.000.000đ.

Việc ông Sơn bán đất cho các hộ dân có sự đồng ý của bà Hóa nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Đối với những người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Bà Mai, bà Trang, ông Sơn có đơn yêu cầu độc lập, yêu cầu Tòa án buộc ông Sơn trả lại tiền đã nhận và lãi suất theo quy định pháp luật từ ngày ký hợp đồng. Bà Thảo có yêu cầu độc lập, yêu cầu Tòa án buộc ông Sơn tiếp tục thực hiện hợp đồng, nếu không thì bồi thường số tiền đã nhận theo quy định của pháp luật. Các hộ khác không có đơn phản tố và yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2018/DS-ST ngày 07/02/2018 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột đã tuyên xử:

Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lê Thị Tuyết Mai, của bà Nguyễn Thị Tuyết Trang, của bà Mai Thị Thu Thảo và ông Nguyễn Sơn; Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hóa.
Tuyên Hợp đồng CNQSDĐ giữa ông Trần Minh Sơn và bà Phạm Thị Hóa bị vô hiệu; buộc ông Sơn trả cho bà Hóa 1.944.500.000đ. Hợp đồng CNQSDĐ giữa ông Sơn và bà Mai vô hiệu; buộc ông Sơn trả cho bà Mai 40.125.000đ. Hợp đồng CNQSDĐ giữa ông Sơn và bà Trang vô hiệu; buộc ông Sơn trả cho bà Trang 26.750.000đ. Hợp đồng CNQSDĐ giữa ông Sơn và bà Thảo vô hiệu; buộc ông Sơn trả cho bà Thảo 381.225.000đ. Hợp đồng CNQSDĐ giữa ông Sơn và ông Nguyễn Sơn vô hiệu; buộc ông Sơn trả cho ông Nguyễn Sơn 53.500.000đ.

Ngoài ra bản án còn tuyên rõ trong số tiền trả gồm tiền đã nhận và tiền bồi thường khác; về chi phí đo đạc, chi phí tố tụng khác và án phí.

Ngày 26/02/2018, ông Trần Minh Sơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

          Sau khi nhận được bản án sơ thẩm trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét thấy bản án có những vi phạm như sau:

- Về thu thập chứng cứ: Bà Hóa khai rằng trong tổng số tiền ông Sơn đã nhận là 2.405.000.000đ gồm 2.205.000.000đ nhận từ bà Đức và 200.000.000đ nhận ngày 17/7/2014. Còn bà Ngân khai rằng việc bà Hóa và ông Sơn ký Hợp đồng CNQSDĐ là chỉ để làm tin cho khoản nợ mà bà Ngân, ông Sơn đã vay của bà Hóa – chị Huệ và khoản nợ này đã được Tòa án giải quyết bằng Bản án sơ thẩm số 02/2016/DSST ngày 04/01/2016 của TAND thành phố Buôn Ma Thuột nhưng Tòa sơ thẩm không tiến hành đối chất và thu thập Bản án số 02/2016/DSST ngày 04/01/2016 để làm rõ mâu thuẫn trong lời khai của bà Hóa với lời khai của bà Ngân là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, vi phạm khoản 2 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Giải quyết vụ án chưa triệt để: Án sơ thẩm tuyên Hợp đồng CNQSDĐ giữa ông Sơn và bà Hóa vô hiệu nhưng không buộc bà Hóa phải trả lại 02 Giấy CNQSDĐ số H 116569 và BP 213855 cho ông Sơn là giải quyết vụ án chưa triệt để, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Sơn.

- Đối với yêu cầu độc lập bà Mai Thị Thu Thảo: Bà Thảo yêu cầu Tòa án buộc ông Sơn tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc trong trường hợp Tòa án không chấp nhận việc thực hiện hợp đồng thì yêu cầu Tòa án buộc ông Sơn phải bồi thường đối với số tiền đã nhận là 345.000.000đ. Sau khi nhận chuyển nhượng bà Thảo đã quản lý sử dụng đất, đầu tư thêm tài sản trên đất. Nhưng theo kết quả đo đạc thì thửa đất có tổng diện tích 1.571m2 trong đó chỉ có 717,7m2 là đất nằm trong thửa đất số 92, 93; còn lại 859,5m2 không thuộc quyền sử dụng của ông Sơn mà thuộc quyền sử dụng của người khác. Cấp sơ thẩm chưa làm rõ phần diện tích đất còn lại nằm trên đất của ai để đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền và nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Hơn nữa phần quyết định của bản án không tuyên buộc bà Thảo phải trả lại diện tích đất đã nhận chuyển nhượng cho ông Sơn là giải quyết vụ án chưa triệt để. Đồng thời bà Thảo yêu cầu Tòa án buộc ông Sơn bồi thường thiệt hại do tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng Tòa sơ thẩm không xác định lỗi của hai bên, không xác định thiệt hại xảy ra mà tính lãi suất từ thời điểm chuyển nhượng đến ngày xét xử sơ thẩm là giải quyết vụ án không đúng yêu cầu của người có yêu cầu độc lập, vi phạm khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và vi phạm Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005, điểm c.2, c.3 tiểu mục 2.3 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao.

- Đối với yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Thủy, bà Thu, ông Hào, ông Sơn, bà Thuyên, bà Hường, ông Trung, ông Vị, ông Tình; các hộ này đều nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Sơn tại các thửa đất số 92, 93 và 89, ông Sơn đã nhận một phần tiền chuyển nhượng, nay các hộ dân yêu cầu Tòa sơ thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật, tuy nhiên Tòa án không hướng dẫn cho đương sự làm đơn yêu cầu độc lập và bản án cũng không phân tích, đánh giá, nhận định đối với yêu cầu của những người nêu trên là vi phạm điểm b khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bà Thủy có đơn yêu cầu độc lập nhưng không nộp tiền tạm ứng án phí. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm không trả lại đơn cho bà Thủy là vi pham quy định tại điểm d  khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Sau đó, bà Thúy có đơn xin rút yêu cầu độc lập nhưng cấp sơ thẩm cũng không nhận định xem xét trong Bản án là vi phạm quy định tại Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Xét thấy Tòa án sơ thẩm thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, thiếu người tham gia tố tụng, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, giải quyết vụ án chưa triệt để, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên ngày 22/3/2018, Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Quyết định kháng nghị số 193/QĐKNPT-VKS-DS đối với Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên theo hướng đề nghị cấp phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm nêu trên, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Tại phiên tòa dân sự phúc thẩm ngày 16/8/2018, Hội đồng xét xử TAND tỉnh Đắk Lắk đã tuyên xử: Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Minh Sơn; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 193/QĐKNPT-VKS-DS ngày 22/3/2018 của Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, chuyển hồ sơ  vụ án cho TAND thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Những vụ án tranh chấp Hợp đồng CNQSDĐ thường phức tạp, liên quan đến nhiều người, đặc biệt khi ký Hợp đồng CNQSDĐ nhưng chưa giao đất, chưa hoàn tất thủ tục sang tên theo quy định; giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu... Trong vụ án này ngoài nguyên đơn, bị đơn rõ ràng liên quan đến ít nhất 25 hộ dân đã nhận chuyển nhượng đất của bị đơn và hai Giấy CNQSDĐ số H 116569 và BP 213855 đứng tên ông Sơn mà bà Hóa đang giữ…; tuy nhiên vụ án dù khó khăn phức tạp nhưng phải được giải quyết triệt để, đúng pháp luật; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự./.
 

0
Nguyễn Thị Hải Anh
In Gửi Email

CÁC CHUYÊN MỤC KHÁC